Bệnh tật của người mẹ có thể gây nguy hiểm cho thai nhi

fg
Chờ khám thai tại bệnh viện Từ Dũ.

Sau đây là các nhóm bệnh ở thai phụ dễ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến thai nhi:
1. Các bệnh nhiễm trùng
a. Do virus
– Sởi: Có thể gây sẩy thai hoặc sinh non. Bệnh này không gây dị tật bẩm sinh cho con.
– Bại liệt: Nếu mắc bệnh trong 3 tháng đầu, khoảng 50% thai phụ bị sẩy thai. Nếu bị bại liệt trong 3 tháng cuối, thai có thể chết trong bụng mẹ. Bệnh này không gây dị tật bẩm sinh cho trẻ.
– Coxsackie: Virus Coxsackie có thể qua rau thai, gây dị tật bẩm sinh cho con (dị dạng ở đường tiết niệu – sinh dục, đường tiêu hóa, hệ tim mạch). Nếu người mẹ nhiễm virus này vào tháng cuối thai kỳ, trẻ sinh ra có thể tử vong do viêm cơ tim hoặc viêm màng não.
– ECHO: Virus này có thể qua rau thai gây viêm màng não cho trẻ, để lại di chứng thần kinh. Bệnh viêm gan do virus ECHO gây tử vong ở trẻ với tỷ lệ khá cao.
– Cúm: Có thể gây sẩy thai, thai chết lưu hoặc sinh non. Đa số trẻ sinh ra có dị tật bẩm sinh nhẹ, hiếm khi có dị tật bẩm sinh nặng ở não. Trẻ sinh ra dễ bị viêm phổi.
– Quai bị: Có thể gây sẩy thai và sinh non. Trẻ sinh ra có thể nhẹ cân và bị dị tật bẩm sinh.
b. Do vi trùng
– Lao: Do mẹ suy kiệt vì bệnh lao nên thai nhi sẽ phát triển chậm. Bệnh nặng có thể gây sẩy thai, thai chết lưu hoặc sinh non.
– Lậu: Đứa trẻ dễ bị lây nhiễm vi trùng lậu từ mẹ, bị viêm kết mạc do lậu diễn tiến, có thể mù nếu không được điều trị kịp thời.
– Sốt rét: Người mẹ có thể bị sẩy thai, thai chết lưu hoặc sinh non. Trẻ sinh ra có thể bị nhẹ cân, sốt, thiếu máu, vàng da, gan và lách to.
2. Các bệnh đường hô hấp
– Hen: Có thể gây thai chết lưu hoặc sinh non.
– Bệnh phổi mạn tính: Thai nhi chậm phát triển. Cả 2 mẹ con có thể bị khó thở cấp, dẫn đến tử vong.
3. Các bệnh tiêu hóa
– Viêm loét đại tràng: Có thể dẫn đến sẩy thai.
– Vàng da ứ mật: Hậu quả thường gặp là thai chết lưu, sinh non hoặc trẻ sinh bị ngạt.
– Viêm tụy cấp: Dễ gây sẩy thai, thai chết lưu, sinh non.
4. Các bệnh về máu
– Xuất huyết giảm tiểu cầu: Trẻ sinh ra có nguy cơ bị xuất huyết não do giảm tiểu cầu.
– Thiếu máu: Nếu mẹ bị thiếu máu nặng, thai nhi sẽ chậm phát triển, bị sẩy, chết lưu, hoặc bị sinh non, bị ngạt khi sinh.
5. Các bệnh thần kinh
– Động kinh: Đứa trẻ rất có thể cũng bị động kinh và có nguy cơ bị dị tật bẩm sinh cao gấp 8 lần so với những trẻ có mẹ không bị động kinh. Việc mẹ bị co giật trong thai kỳ thì sẽ làm tăng khả năng tử vong cho thai.
– Nhược cơ: Đứa con sinh ra có thể bị yếu cơ, khóc yếu và bú yếu. Các triệu chứng này xuất hiện khoảng 10 ngày sau khi sinh và thường hồi phục sau nhiều tuần.
6. Các bệnh tim mạch
– Bệnh tim: Trẻ có nguy cơ tử vong (nguy cơ này cao hay thấp tùy thuộc vào mức độ bệnh tim của mẹ).
– Sốc do mất máu: Có thể gây tình trạng ngạt cho thai.
7. Các bệnh thận – nội tiết
– Viêm cầu thận: Khoảng 10% trường hợp bị hư thai, 20% sinh non hoặc sinh ngạt.
– Nhiễm trùng tiểu: Có thể gây sinh non, sẩy thai hoặc thai chết lưu.
– Tiểu đường: Con sinh ra thường to và dễ bị hạ đường huyết.
8. Bệnh ngoại khoa
– Viêm ruột thừa: Bà mẹ bị viêm ruột thừa có thể sẩy thai (nếu bị trong 3 tháng đầu) hoặc sinh non (nếu bị trong 3 tháng cuối).
– Chấn thương vùng bụng: Các tai nạn gây chấn thương nội tạng người mẹ cũng có thể gây chấn thương trực tiếp cho thai.
Để đảm bảo cho trẻ sinh ra được khỏe mạnh, phụ nữ mang thai cần đến các bệnh viện khám định kỳ nhằm phát hiện và điều trị kịp thời những bệnh lý gây tác động bất lợi cho thai.
BS Cam Ngọc Phượng, Người Lao Động

1gom