Mini được thiết kế năm 1950 bởi Alec Issigonis, kỹ sư người Anh, một trong những tên tuổi có ảnh hưởng nhất của ngành công nghiệp chế tạo xe hơi, khi đó còn đang làm việc cho British Motor Corporation (BMC). Tạo ra chiếc Mini, Issigonis thuộc vào số những người cuối cùng đã thiết kế một chiếc xe hoàn chỉnh.
Mini Cooper S năm 1967. |
Sự ra đời của Mini bắt nguồn khi cuộc chiến ở Trung Đông năm 1959 làm dấy lên sự lo ngại về việc thiếu hụt nhiên liệu. BMC quyết định chế tạo một chiếc xe thực sự tiết kiệm và hữu dụng, tương tự các mẫu xe 3 bánh thời bấy giờ như Isetta và Messerschmitt.
Trong vòng gần 18 tháng, Issigonis và đồng sự đã hoàn tất nguyên mẫu của chiếc Mini, ngoại trừ động cơ là sử dụng loại có sẵn của BMC. Chiếc xe có tên đầy đủ Austin/Morris Mini chính thức ra mắt mùa hè năm 1959.
Nó thực sự là một thiết kế mới lạ, tận dụng tối đa buồng lái. Bánh xe nhỏ chỉ 10 inch, hệ thống giảm xóc cao su thay cho các lò xo xoắn, hầu như không mấy ảnh hưởng đến thể tích khoang xe. Kết quả là chiếc xe có thể chở tới 4 người và một lượng tương đối hành lý chỉ với chiều dài 3.048 mm và trục cơ sở 2.032 mm. Nó cũng chỉ nặng 608 kg. Dù Issigonis không chú trọng đến việc tạo ra phong cách riêng cho chiếc xe, Mini vẫn cứ là một kiểu dáng độc đáo chẳng giống ai lúc bấy giờ.
Kích thước nhỏ mang lại cho Mini lợi thế dễ điều khiển, nhưng nó cũng là một chiếc xe rất chắc chắn. Chính vì vậy mà dù động cơ chỉ có 848 cc, 37 mã lực, Mini vẫn thu hút được sự quan tâm của John Cooper, chuyên gia chế tạo xe đua đã hai lần vô địch giải F1 với tư cách đội đua.
Cooper là bạn thân của Issigonis. Khi dần hứng khởi với ý tưởng về chiếc Mini nhanh hơn, Issigonis đã đồng ý cùng với Cooper “độ” lại chiếc Mini. Năm 1961, chiếc Mini Cooper trình làng với công suất 55 mã lực, động cơ dung tích 998 cc hai bộ chế hòa khí, nâng tốc độ tối đa từ 121 km/h lên 137 km/h.
Mini Cooper lập tức được sự hưởng ứng nhiệt liệt cả từ các tay đua lẫn người dùng phổ thông. Không khó hiểu khi Cooper tiếp tục bắt tay vào nghiên cứu một chiếc Mini nhanh hơn nữa, xe Cooper S. Ra đời năm 1963, chiếc xe thoạt đầu chỉ nhằm vào việc giành giải thưởng trên các đường đua. Động cơ xe lần lượt được nâng cấp từ 970 cc đến 1.071 cc và 1.275 cc. Tuy nhiên, nhu cầu từ phía khách hàng khiến chiếc xe được đưa vào dây chuyền sản xuất hàng loạt với động cơ 1.275 cc.
Mini Cooper S là bước đột phá. Nó có thể tăng tốc 100 km/h chỉ sau 10,5 giây, đạt tốc độ tối đa 158 km/h, một thành công ngoài sức tưởng tượng trong các cuộc đua. Nó thống trị các cuộc đua đường trường châu Âu cho tới cuối thập niên 60.
Với sự xuất hiện của chiếc xe Mark II Mini năm 1967, Cooper S mất dần những ưu thế của mình. Cũng vào thời điểm đó, các cuộc đua ngày càng trở nên khó khăn hơn. Năm 1971, Mini Cooper S chấm dứt sản xuất nhưng vẫn còn được yêu thích cho tới tận ngày nay. Giống như Volkswagen, Mini đã được hãng mẹ là BMW cho tái xuất vào năm 2003.
(Theo Canadian Driver)