Hai lần đòi nợ và nỗi niềm về sự công bằng

Hai lần đòi nợ và nỗi niềm về sự công bằng
Một công ty Hong Kong mua gạo của Công ty Xuất nhập khẩu Lương thực An Giang (Angitexim). Sang tới nơi thì gạo bị ướt, trong khi phía nước ngoài vẫn giữ một khoản tiền chưa thanh toán tới 500.000 USD. Theo hợp đồng, Angitexim chỉ quản lý gạo cho đến khi xuống tàu. Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam, theo đúng thỏa thuận này, buộc phía Hong Kong phải trả 511.000 USD cho Angitexim (bao gồm cả khoản nợ và phí luật sư).
“Có trong tay phán quyết trọng tài, mừng, nhưng tôi không nghĩ việc việc lấy được tiền là dễ”, luật sư Nguyễn Chính, người tư vấn cho Angitexim nhớ lại. Ngay lập tức, ông làm thủ tục đề nghị Tòa thượng thẩm Hong Kong công nhận phán quyết của trọng tài Việt Nam. Ông Chính nói: “Tôi hết sức ngạc nhiên là chỉ mất có 10 ngày kể từ khi nộp hồ sơ, tòa đã ra phán quyết công nhận. Số tiền mà công ty Hong Kong phải nộp lên tới 541.000 USD, vì thêm chi phí luật sư phát sinh”. Về phía công ty Hong Kong, không chờ hết thời gian khiếu nại, đã tìm gặp luật sư của Angitexim thảo luận phương thức trả nợ. 3 tháng sau, Angitexim có đủ số tiền trên trong tay.
Đó là chuyện doanh nghiệp Việt Nam đòi nợ ở Hong Kong.
Còn ở ta
Cho tới ngày 27/11/2001, tức là gần 6 năm kể từ khi bản án do tòa Việt Nam tuyên có hiệu lực, Chi nhánh BNP, một ngân hàng nước ngoài hoạt động tại TP HCM, mới đòi được 182.000 USD tiền nợ từ Tổng công ty Dâu tằm tơ (Viseri).
Bản án hồi đó của Tòa kinh tế TP HCM là có lợi cho Viseri: Thỏa thuận lãi trả cho BNP trong hợp đồng là 18%/năm, thì tòa tuyên Viseri được hưởng mức 9,8%/năm; chi phí luật sư được tuyên thuộc BNP. Thời hạn trả nợ là 30 ngày. Thế nhưng, Viseri chỉ cam kết trả góp với mức có 2.000 USD/tháng. Và đến 5 năm sau, Viseri mới trả BNP được gần 20.000 USD.
Không thể trông chờ vào sự tự nguyện của Viseri, Phòng thi hành án TP HCM quyết định cưỡng chế thi hành qua những khoản tiền của bên thua kiện mà “người thứ ba” giữ hộ, theo đúng quy định của pháp luật. Ngày 15/7/2000, Công ty Luật Hồng Đức (đơn vị tư vấn cho BNP) nhận được tin Viseri sẽ được hoàn thuế 3,4 tỷ đồng. Phòng thi hành án có công văn yêu cầu Cục Thuế Lâm Đồng chuyển số tiền này cho BNP, song cơ quan thuế từ chối, cho rằng tiền đang ở Cục thì vẫn là của ngân sách. Một công văn khác được chuyển cho Kho bạc Lâm Đồng, nhưng đơn vị này, thay vì chuyển tiền vào tài khoản của Phòng thi hành án, lại tạo điều kiện để cho Viseri rút ra bằng tiền mặt. Một số khoản tiền khác của Viseri do các cơ quan ở Lâm Đồng giữ cũng bị phát hiện, nhưng không ai chịu chấp hành lệnh thi hành án.
BNP chỉ thu được khoản nợ nói trên vào ngày 27/11/2001 khi phát hiện tiền của Viseri chuyển qua một ngân hàng nước ngoài.
Những trăn trở
Luật sư Ngô Thanh Tùng cho biết, nếu tiền của Viseri không đi qua ngân hàng nước ngoài thì không chắc Hồng Đức của ông giúp BNP lấy được tiền. Theo ông, 182.000 USD không phải là khoản tiền lớn nhưng BNP coi đó là một thách thức quan trọng về môi trường làm ăn ở Việt Nam. “Họ muốn biết có thể vượt qua được thách thức như vậy không”, ông Tùng nói.
Luật quy định cơ quan thi hành án có quyền kê biên tài sản của con nợ do người thứ ba giữ hộ. Người thứ ba, nếu không thi hành, thì có thể phải trả nợ thay hoặc bị khởi tố. Song thực tế, theo lời ông Nguyễn Hoàng Huy, người nhiều năm làm Trưởng phòng Thi hành án TP HCM: “Nếu cơ quan quản lý không đồng tình, hỗ trợ, thì các cán bộ thi hành án chẳng bao giờ thi hành được”.
Cũng về các cơ quan quản lý, luật sư Tùng nói: “Các vị ấy mắng chúng tôi, có thể chỉ vì nghĩ rằng, tại sao chúng tôi và cán bộ thi hành án, là người Việt Nam, lại đi đòi tiền cho doanh nghiệp nước ngoài”. Rõ ràng, những vị đó không hiểu rằng, các quan tòa ở Hong Kong (trong trường hợp của luật sư Nguyễn Chính) không phải là không biết bảo vệ lợi ích doanh nghiệp của họ, mà họ biết bảo vệ cái lợi lớn hơn: lòng tin của mọi người khi làm ăn với đối tác Hong Kong.
(Theo Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn)

1gom